Về Trang Phan Đình Diệu

NIỀM KÍNH YÊU ĐỐI VỚI NGƯỜI THẦY MẪU MỰC

Kính tặng Giáo sư Nguyễn Thúc Hào nhân dịp mừng thọ Thầy 95 tuổi · Phan Đình Diệu

Tôi theo học ở Khoa Toán Đại học Sư phạm Hà Nội vào khoá học 1955–1957. Các bạn học cùng khoá thời đó, dù cách đây đã một nửa thế kỷ, nhưng vẫn còn rất gắn bó với nhau, hàng năm vẫn họp mặt cùng nhau để hàn huyên về những kỷ niệm cũ, những kỷ niệm của một thời tuy đã khá xa nhưng đối với mỗi chúng tôi vẫn rất thân thương gần gũi. Trong những cuộc họp mặt hàng năm đó, các kỷ niệm sâu sắc mà chúng tôi vẫn thường nhắc đến một cách đầy kính yêu và trân trọng là về các thầy giáo yêu quý một thuở của mình. Điều may mắn đối với lớp học trò chúng tôi ngày ấy là, tuy trong hoàn cảnh đất nước mới được hoà bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, trường lớp mới được phục hồi, v.v., nhưng chúng tôi đã được học với các bậc thầy mà tài năng và đức độ đã nổi tiếng làm chúng tôi rất ngưỡng mộ: đó là các thầy Lê Văn Thiêm, Nguyễn Thúc Hào, Nguyễn Cảnh Toàn, Ngô Thúc Lanh, v.v.

Thầy Nguyễn Thúc Hào dạy cho khoá học chúng tôi hai môn học: môn Hình học giải tích ở năm thứ nhất, và môn Hình học vi phân ở năm thứ ba. Thầy thuộc lớp giáo sư đã có tuổi, đã từng dạy học nhiều năm ở Huế trước Cách mạng tháng Tám, và trong những năm kháng chiến đã tự mình mở lớp dạy đại học ở quê nhà rồi sau đó tham gia xây dựng và giảng dạy các lớp đại học chính thức đầu tiên của nước ta được mở ở Thanh Hóa, ở Nam Ninh (trên đất Trung Quốc); thầy không những nổi tiếng về dạy hay, dạy giỏi, mà còn rất nổi tiếng về tính nghiêm khắc và mẫu mực trong công việc dạy học. Trong mấy năm được học với thầy qua hai môn học khó về Hình học, chúng tôi đã được trực tiếp chứng kiến và thụ hưởng những đức tính nói trên của người thầy mà mình rất đỗi ngưỡng mộ. Cho đến bây giờ, sau khi đã trải qua cả một cuộc đời đi dạy học, chúng tôi vẫn còn nhớ như in những bài giảng Toán của thầy với những hình vẽ thẳng ra thẳng, tròn ra tròn, ngay ngắn, chính xác, với những nét chữ đẹp và đều đặn như chữ mẫu viết tập. Lời thầy giảng bao giờ cũng rõ ràng, trong sáng, vừa đủ để giảng giải, để thuyết minh bài giảng, gần như không thừa và cũng không thiếu, và bài giảng luôn luôn được thực hiện đúng giờ, chẳng khi nào bị kéo dài quá giờ; nói tóm lại, mỗi tiết giảng của thầy bao giờ cũng có thể được xem là một tiết giảng mẫu mực mà mãi về sau này, khi đã làm thầy giáo, chúng tôi luôn cố gắng noi theo. Tất nhiên, tính mẫu mực bao giờ cũng đi kèm với những yêu cầu nghiêm túc đối với người học. Tôi nhớ, thầy rất hiền từ, không bao giờ nổi nóng với học trò, luôn nhẹ nhàng chỉ bảo những khi học trò chúng tôi tỏ ra chậm hiểu, mà những điều “chậm hiểu” của lũ học trò chúng tôi thì thường không phải là ít, có những điều phát biểu ra được nhưng cũng có nhiều điều e ngại không dám nói ra, vì các bài học hình học của thầy thường là khó, đòi hỏi trí tưởng tượng phong phú và cả những suy luận sắc sảo, và nhất là đòi hỏi người học phải luôn tập trung chú ý nghe thầy giảng trong giờ học. Thực ra, thầy cũng không đòi hỏi ở học trò chúng tôi những gì quá cao, cao hơn hẳn những chuẩn mực bình thường, nhưng có thể vì chương trình học nói chung khá căng thẳng, nên đối với các yêu cầu “bình thường” đó nhiều khi chúng tôi cũng chưa đáp ứng được, và vì vậy các bài kiểm tra hoặc thi về các môn học của thầy, chúng tôi thường đạt được điểm rất thấp, có lần gần như nửa lớp phải nhận điểm 0/10; cả đến kỳ thi tốt nghiệp, đối với môn hình học vi phân, chỉ có khoảng 1/10 số học sinh trong lớp đạt được điểm trên trung bình (5/10). Yêu cầu nghiêm khắc đối với việc tiếp thu kiến thức của học sinh, và tính nghiêm túc, không dễ dãi trong việc đánh giá kết quả học tập của người học là những kinh nghiệm quý mà về sau này khi đi dạy học, qua kinh nghiệm thực tế, chúng tôi mới thấy là chỉ cần buông lỏng tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của người thầy thì không dễ gì thực hiện nổi. Ngày nay, trong công cuộc cải cách giáo dục, nhìn lại thực tiễn hoạt động giáo dục mấy chục năm qua, chúng ta đã càng ngày càng thấy rõ một trong những yếu kém cần được khắc phục của thực tế giáo dục ở mọi cấp học của ta là sự thiếu nghiêm túc trong cả việc dạy và việc học: thầy dạy không ra dạy, trò học không ra học, thầy dạy tắc trách trên trường lớp, còn dành phần kiến thức cho việc dạy thêm để kiếm tiền, học trò đi học chẳng cần hiểu, bởi vì điểm cao, thi đậu, v.v. có thể kiếm được bằng tiền mà chẳng cần có kiến thức thật; không chỉ trong ngành giáo dục mà cả trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác, chính sự thiếu nghiêm túc, sự dối trá trong việc làm, sự dối trá đặc biệt trong đánh giá, nhận xét, thẩm định, v.v. đang là một căn bệnh gây nên biết bao tiêu cực và thiệt hại cho xã hội ta. Cứ mỗi lần gặp một sự việc như vậy trong cuộc sống hàng ngày, tôi lại nhớ đến người thầy mẫu mực của mình để mà suy ngẫm, mà chiêm nghiệm, để càng thêm kính yêu, trân trọng những kỷ niệm về một thời được học với thầy.

Tôi chỉ là một học trò, được biết chút ít về thầy qua những năm học ở trường. Về sau, khi ra trường, có dịp được tiếp xúc rộng hơn, tôi được nhiều bạn bè và đồng nghiệp quen biết kể cho nghe nhiều câu chuyện cảm động khác trong cuộc đời hoạt động của thầy, những câu chuyện luôn làm sâu đậm thêm trong ý thức của tôi về hình ảnh một người thầy nghiêm túc mà gần gũi, một tấm gương về một nhà giáo mẫu mực, tận tụy với nghề, tận tình với học trò, một thầy giáo có kiến thức khoa học uyên thâm và vẫn đậm phong cách nhân ái của một ông đồ xứ Nghệ. Sau khi tốt nghiệp ra trường, tôi được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Khoa Toán của trường, được có cơ hội sống và làm việc cùng thầy thêm một thời gian nữa. Lúc ấy thầy vẫn là Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội kiêm Chủ nhiệm Khoa Toán. Mấy năm được công tác cùng khoa với thầy, các anh em cán bộ trẻ chúng tôi có dịp được học tập rất nhiều ở thầy, học thêm về kiến thức chuyên môn đã đành, nhưng quan trọng hơn là học được ở thầy về phương pháp giảng dạy, các kinh nghiệm dạy học, từ việc soạn bài, chuẩn bị một bài giảng, cho đến việc trình bày, giảng giải, hướng dẫn làm một bài tập, v.v. Và bài học lớn nhất, thấm thía nhất chúng tôi học được, dù không qua một buổi lên lớp nào cả, là lòng yêu nghề, ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, đạo đức và lòng tự trọng của một người thầy giáo, tính nghiêm túc, kỷ luật, mẫu mực nhất thiết phải có đối với một người đã chọn dạy học làm nghề nghiệp cho cuộc sống của mình.

Cách đây hai mươi lăm năm, nhân mừng thọ 70 tuổi của thầy Hào, anh Văn Như Cương, một bạn học cùng lớp thời đại học, có làm tặng thầy một bài thơ Đường luật, coi như bài thơ xướng và yêu cầu các bạn học làm thơ hoạ để cùng mừng thọ thầy. Tôi nhớ bài thơ xướng của anh Văn Như Cương là như sau:

Mừng thầy nay thọ bảy mươi tròn Sáu nổi một chìm với nước non (*) Tính toán một đời hai tay trắng Chắt chiu hai tốt một lòng son Lơ thơ lui tới trò và bạn Ríu rít ra vào cháu với con Dẫu biết bảy mươi xưa nay hiếm Vẫn mong thầy thọ đến trăm tròn.

Tôi cũng nhớ là lần ấy, bản thân thầy Hào có làm một bài thơ tự vịnh rất hay, gọi là để hoạ bài thơ của anh Cương. Hưởng ứng sáng kiến của ông bạn V. N. Cương, tôi cũng có làm một bài hoạ để mừng thọ thầy, thơ chắc là còn rất vụng, nhưng chỉ dám nói là cố theo đúng tinh thần nghiêm túc, trong trường hợp này là đúng niêm đúng luật. Thơ như sau:

Một tấm gương trong giữ vẹn tròn Sá bao công vượt suối trèo non Tay dù trắng, đẹp đời trong trắng Lòng vẫn son, bền chí sắt son. Từng trải nắng mưa lo nghiệp lớn Giờ vui mây nước mảnh tình con Đời còn sương bụi bao mờ tỏ Xin mãi long lanh ánh nguyệt tròn.

Phan Đình Diệu


-----------------------------
(*): Tác giả giải thích “sáu nổi một chìm” ở đây có nghĩa là trong 70 năm thì có 60 năm là sống "nổi" với đời, và 10 năm về hưu “chìm”.