TRƯỚC NHỮNG SỰ KIỆN MỚI: NHẬN THỨC VÀ SUY NGHĨ

Trong những tháng cuối năm 1989 đã liên tiếp và dồn dập diễn ra những biến chuyển chính trị sâu sắc và rộng lớn trong hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, mở đầu những thay đổi chắc chắn sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của toàn thế giới. Những biến chuyển đó đánh một dấu chấm cho một thời của những thử nghiệm bi hùng và những trăn trở dồn nén của một phần nhân loại văn minh, và mở tiếp chặng đường cho những tìm kiếm mới trên con đường lịch sử. Hàng loạt các vấn đề của thời đại và của các dân tộc lại được đặt ra, đòi hỏi được nhận thức và lý giải một cách đúng đắn, khoa học.
Có người hốt hoảng lo sợ là, cùng với những biến chuyển đó – và cả những biến chuyển chắc chắn sẽ còn tiếp tục trong tương lai – chủ nghĩa xã hội đang mất đi. Đúng là có những thứ đang mất đi, nhưng phải chăng những thứ đó là chủ nghĩa xã hội đích thực, ước mơ hàng đời của nhân dân lao dộng? Không, chúng ta tin tưởng rằng hàng chục triệu quần chúng lao động có trình độ giác ngộ chính trị, mang trong mình những giá trị của văn minh thời đại trong các nước anh em không dễ gì bị ai xúi giục để tự mình hồ hởi vứt đi những thành quả chân chính của mình. Cái đang mất đi, cái đang được đòi hỏi phải mất đi, chỉ là những khuyết tật và sai lầm trong một mô hình đã lỗi thời của chủ nghĩa xã hội. Gạt bỏ những yếu kém, những cản trở là để tạo điều kiện tìm kiếm và xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp hơn, đáp ứng đầy đủ hơn những lý tưởng cơ bản về chủ nghĩa xã hội mà loài người vẫn ước mơ và phấn đấu vươn tới.
Ta biết rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội đã có một lịch sử khá lâu dài, nên kể từ những ước mơ lý tưởng về chủ nghĩa xã hội đã xuất hiện từ thời cổ đại, rồi tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong các thế kỷ 17, 18, và sau đó, các mô hình tổ chức xã hội mới của các trường phái chủ nghĩa xã hội không tưởng đầu thế kỷ 19.
Mác và Angghen, những người sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, bằng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đã phân tích bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, những mâu thuẫn nội tại của phương thức đó trong quá trình phát triển của nó, và tính tất yếu của việc thay thế nó bằng phương thức sản xuất cao hơn – cộng sản chủ nghĩa – thông qua cuộc cách mạng do giai cấp vô sản thực hiện. Xã hội cộng sản chủ nghĩa là một xã hội có nền sản xuất phát triển cao, có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nền kinh tế tự quản và không có quan hệ hàng hóa. Một xã hội không còn giai cấp và không có bóc lột, trong đó mọi người “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Chủ nghĩa xã hội được xác định là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản tiếp sau thời kỳ cải biến cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng vô sản, theo dự kiến lúc đầu của Mác, phải xảy ra trước hết và đồng thời trong các nước tư bản chủ nghĩa có trình độ sản xuất cao nhất.
Đến đầu thế kỷ 20 cuộc cách mạng vô sản đầu tiên đã thành công không phải ở một loạt các nước tư bản phát triển nhất, mà trước hết ở nước Nga có một nền sản xuất còn lạc hậu. Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười, sau những năm gian khổ của nội chiến và cũng là những năm thực hiện chủ nghĩa cộng sản thời chiến đứng trước nguy cơ của một nền kinh tế kiệt quệ và một triển vọng chưa có sự thành công của cách mạng vô sản ở một nước phát triển nào khác, trong những năm 1921 – 1923. Lê nin đã phát triển và điều chỉnh một số luận điểm của chủ nghĩa Mác và đã đưa ra – cùng với chính sách kinh tế mới – một mô hình mới của chủ nghĩa xã hội mà những nét chính là: khôi phục quy luật giá trị, các quan hệ tiền tệ và hàng hóa, tiền lương tùy theo số lượng và chất lượng lao động, kinh tế hợp tác được thừa nhận là một thành phần xã hội chủ nghĩa, chính quyền chuyển cho bộ máy nhà nước “kiên quyết nhưng mềm dẻo”, có tính đến sự đa dạng quyền lợi xã hội. Lê nin đã nhìn thấy và cảnh giác với sự phát triển chế độ quan liêu, đặc quyền trong giới cầm quyền từ thời đó.
Lê nin mất đi vào đầu năm 1924. Từ đó, các chính sách cải cách nói trên không còn được tiếp tục, người ta bắt đầu thực hiện rộng rãi quốc hiệu hóa và những bước hợp tác hóa ở nông thôn. Một nền kinh tế với hai hình thức sở hữu công cộng (toàn dân và tập thể), kế hoạch hóa tập trung toàn bộ và thiết lập. Về chính trị, mọi sự đa dạng không còn được tự do thể hiện và tranh luận, rồi sau đó được giải quyết bằng đàn áp, chuyên chính vô sản (đáng lẽ là một nền dân chủ rộng rãi đối với nhân dân lao động) được thay thế bằng chuyên chính của Đảng và trong thực tế chuyển dần thành chuyên chính cá nhân. Trong điều kiện của một nhà nước chuyên chính như vậy, thì về kinh tế, các hình thức sở hữu công cộng cũng thực tế biến thành sở hữu nhà nước, và từ đó, ít nhiều có tính chất sở hữu của một tầng lớp dân quyền. Đó là những nét chủ yếu của một hình mẫu thực tế về “chủ nghĩa xã hội”, mà ngày nay người ta thường gọi là chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin. Chế độ xã hội chủ nghĩa với sự tập trung cao độ về quyền lực và sức lực đó, trong những điều kiện đặc biệt và những giai đoạn nhất định đã có tác động phát triển nhanh nên công nghiệp ở Liên Xô, mặc dầu cái giá phải trả la không ít những mất mát và lãng phí.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời. Do những điều kiện lịch sử mà chúng ta đều biết, trong tất cả các nước đó, với mức độ đậm nhạt có thể khác nhau, trên thực tế đã áp dụng mô hình nói trên của chủ nghĩa xã hội. Các chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình đó ngày càng bộc lộ những nhược điểm, mà cơ bản là: về kinh tế, chế độ quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã không tạo ra được động lực cho sự phát triển, đặc biệt những đòi hỏi cấp bách của những bước tiến vũ bão mà cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang thúc đẩy: về chính trị với danh nghĩa “chuyên chính vô sản” đã áp đặt những chế độ hạn chế hoặc bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ chân chính của con người. Những đòi hỏi thay đổi không phải bây giờ mới xuất hiện, nhưng đã phải chờ đến ngày nay, được tư duy chính trị mới và đường lối cải tổ triệt để ở Liên Xô cổ vũ và tạo điều kiện, các yêu cầu thay đổi mới thực sự được thực hiện.
Vậy thì, những biến chuyển vừa qua, với tất cả các phức tạp của chúng mang một ý nghĩa tích cực và lạc quan. Một bộ phận to lớn của nhân loại đáng kính trọng đang dũng cảm rũ bỏ những yếu kém của chính mình để vượt lên. Va chắc chắn, các dân tộc thông minh đó không phải vứt đi tất cả. Những gì tốt đẹp, đích thực xã hội chủ nghĩa của nhữ ng năm tháng lao động và xây dựng vừa qua hẳn vẫn được trân trọng giữ gìn và phát huy trong những bước đường đổi mới của hiện tại và tương lai.
*
Đã đến lúc không nên né tránh nữa câu hỏi: phải chăng trong gần một thế kỷ qua, chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa mới phát triển được những gì mang tính chất xã hội chủ nghĩa, còn ở phía bên kia mọi thứ đều chỉ nhằm biện hộ, cứu vãn sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản?
Học thuyết Mác-xít về chủ nghĩa cộng sản khoa học đã ra đời trong lòng các nước phát triển nhất. Và trong cái phần to lớn và tiên tiến đó của loài người, suốt thế kỷ qua, những tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa bao giờ ngừng vận động và phát triển. Cuộc cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển nhất chưa xảy ra như Mác dự kiến, nhưng thế giới tư bản hiện nay đã khác nhiều với chính nó ở đầu và thậm chí ở giữa thế kỉ này. Cuộc đấu tranh liên tục của nhân dân lao dộng, ảnh hưởng mạnh mẽ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, phải chăng mang lại những thành quả không thể chối cãi được mang tính chất xã hội chủ nghĩa ngay trong lòng các nước tư bản hiện nay?
Chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ có một định nghĩa thống nhất. Nhưng nếu ta xem chủ nghĩa xã hội như một chế độ, một trật tự xã hội, mà mục tiêu là nhằm phát triển tối đa nền sản xuất và kinh tế trên cơ sở áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại, đồng thời nhằm tạo lập một quan hệ công bằng xã hội với ý nghĩa là mọi người lao động đều có điều kiện phát huy năng lực sáng tạo của mình được hưởng xứng đáng với những thành quả lao động, thì phải chăng mọi thành tựu trên con đường đạt đến mục tiêu đó đều đáng được trân trọng, và cũng đáng được xem là có tính chất xã hội chủ nghĩa? Với ý nghĩa đó, những kiến nghị gần đây về việc kết hợp kinh nghiệm của phong trào cộng sản và phong trào xã hội – dân chủ trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội là những kiến nghị có tính khoa học và thực tiễn.
Một thế kỉ đã trôi qua, và lịch sử đã chứng tỏ là con đường đi đến chủ nghĩa xã hội không phải là con đường độc đạo. Nhân loại đã tìm kiếm, đã thử nghiệm, và sẽ còn tiếp tục tìm kiếm và thử nghiệm. Một mô hình mới của chủ nghĩa xã hội, có một nền kinh tế hàng hóa với cơ chế thị trường, có một thể chế chính trị dân chủ với việc tôn trọng các quyền tự do dân chủ cơ bản của con người và công dân, có một Nhà nước của nhân dân lao động có khả năng điều tiết kinh tế ở mức vĩ mô, điều chỉnh thu nhập và tăng cường phúc lợi, và bảo đảm trật tự, dân chủ cho xã hội, đang được hoàn thiện dần cả về cơ sở lý luận và thể nghiệm thực tiễn.
Chúng ta đang sống trong một thời đại của những bước tiến vĩ đại của nền văn minh nhân loại, mà các tư tưởng chủ nghĩa xã hội chân chính là một yếu tố hợp thành. Nền văn minh nhân loại là thống nhất, và những biến chuyển to lớn hiện nay sẽ góp phần làm giàu có thêm các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong nền văn minh thống nhất đó. Với tư cách là một bộ phận của nhân loại, dân tộc ta, đất nước ta chắc chắn phải có vị trí xứng đáng trong dòng biến chuyển vĩ đại của nhân loại văn minh.